Trang chủ Đời SốngCâu Chuyện Bàn Tròn – 5 Ông Đầu Bạc ; Dưới giàn mướp đắng

Câu Chuyện Bàn Tròn – 5 Ông Đầu Bạc ; Dưới giàn mướp đắng

bởi Huy Le

Dưới giàn mướp đắng

Tại một quán điểm tâm, chung quanh chiếc bàn tròn kê gần cửa, năm ông đầu bạc ngồi chờ dịch vụ sau khi đã gọi cà phê phin, bánh mì giòn, trứng ốp-la cho bữa ăn sáng nay – ngày thứ Bảy ấm áp.

Đây là một nhóm bạn cao niên thân thiết. Họ gặp nhau trong đồng cảnh ngộ – đều là di dân đến xứ người vì muốn tự do, muốn đổi đời. Tuy tuổi tác ngang nhau, nhưng thực tế vẫn có ông già nhất mang tên Cả, ông trẻ nhất tên Út, và ba ông còn lại lần lượt được gọi là Trỏ, Giữa, Nhẫn. Coi mặt đặt tên nên dễ nhận dạng.


Ở nước nhà, mỗi ông mỗi miền, họ chưa hề gặp nhau một lần. Nay trên “đất khách”, được biết nhau đôi ba lần qua sinh hoạt cộng đồng, chùa chiền hay nhà thờ, hội thánh nên kết bạn. Dù không cư ngụ sát nách nhau, nhưng nhờ có xế hộp hoặc tàu điện, xe buýt, cứ hú một cái các ông tụ lại chẳng lâu lắt chi – thôi thì “bán anh em xa mua láng giềng gần” cũng tốt.


Từ ngày lập nên “Đội Ngũ” – nhóm 5 trự – các ông vui lắm. Ai nấy đều bảo rằng chính đội ngũ đã cứu mình ra khỏi buồn bực, thậm chí khỏi trầm cảm và tệ nhất là có ông định “bỏ quách xứ màu mỡ để trở về cố hương” nhưng nhờ nhóm mà ngừng ý định. Mỗi ông mang một tâm sự – nỗi niềm biết tỏ cùng ai! Ấy chính lý do đó mà họ gặp nhau ăn sáng vào buổi cuối tuần để tán chuyện gẫu chứ không lạm bàn quốc sự – xin làng nước hiểu cho.


Mỗi người mỗi tánh; gia cảnh, trình độ, sở thích khác nhau; công việc trước đây cũng khác nhau nữa. Có ông về VN như cơm bữa, có ông chẳng rời chân khỏi đất “căng ga ru” lấy 1 ngày, có ông đã đi du lịch Âu Mỹ mòn cẳng. Gặp nhau để “xả bầu tâm sự”. Các ông đã cam kết “Mỗi khi chúng ta ăn, uống ở ngoài, nhất định ăn, uống giống nhau” – đấy là sự bày tỏ đồng nhất và thiết hữu của “Đội Ngũ”. Các ông cũng cam kết khi tán gẫu, bàn chuyện, nhất định chỉ góp ý chứ không tranh luận để khỏi phân rẽ nội bộ hoặc làm mất tình hòa khí mà các ông quý hơn vàng, hơn các bà thích hột xoàn.

Gia đình ông Sáu rời quê nhà, định cư tại nước ngoài vào những năm cuối của phong trào vượt biên bán chính thức dưới giấy tờ lý lịch người Việt gốc Hoa. Nhưng tới đảo, tên thật trên giấy khai sanh, chứng minh nhân dân được dùng lại không sai trật. Nhờ giấu theo được một số của cải (vàng miếng, vàng thỏi), lại có bạn bè quen biết đến trước góp ý, nên vợ chồng ông Sáu bạo gan mua cửa tiệm, sửa sang lại, trên lầu để ở (lối đi từ phía sau), tầng trệt thành quán ăn (đúng như luật hội đồng thành phố cho phép) – xem như một trong những cửa hàng, tiệm buôn đầu tiên của cộng đồng người Việt.

Lúc bấy giờ, người mình thương và quý người mình lắm; chưa nhan nhãn cửa hàng Á châu, do vậy khách đến “ủng hộ” khá đông. Chỉ bốn năm sau, ông bà Sáu đủ điều kiện vay tiền ngân hàng mua được nhà làm tư thất, sống lại cuộc sống sung túc, không thua gì trước 1975. Có vốn và biết làm ăn có khác! Lần luột, con lớn tốt nghiệp Đại học, con giữa lớp 12, con út lớp 10.

Thấm thoát 15 năm nơi đất khách quê người trôi qua. Hai vợ chồng ông bà Sáu vẫn trực tiếp quản lý nhà hàng, thuê đầu bếp người Hoa, nhân viên phục vụ đa sắc tộc; mở thêm “nhẩm trà” buổi trưa. Tiền thu nhập rất khấm khá; chỉ có cái ông bà Sáu ngửi dầu mỡ hơi nhiều, sau mười giờ tối mới rảnh tay chân và về nhà ngủ thẳng giấc. Ba con, trai lẫn gái, đã yên bề gia thất. Hai sống khác tiểu bang, một cách nhà cha mẹ chừng nửa giờ lái xe. Ông bà Sáu xem sự thành đạt của mình là niềm vui; con cái có công việc tốt, sống bên nhau êm ấm.

Bước vào mùa Đông của năm thứ 16, thật là “phúc bất trùng lai” cho gia đình ông Sáu khi kết quả xét nghiệm máu của bà Sáu cho biết: Bà bị ung thư máu. Ông Sáu buồn bã định buông tay khỏi nhà hàng; bà nài nỉ ông hãy yên lòng trông coi, còn bệnh của bà thì có bác sĩ, có nhà thương lo. Thế nhưng, cơ thể bà Sáu tiều tụy thấy rõ, sức khỏe mỗi ngày một yếu; ba lần hóa trị, rồi xạ trị không hiệu quả. Tám tháng sau đó, bà Sáu ra đi trong cơn đau đớn, thều thào muốn trối với chồng con mà không nói thành lời.

Vợ qua đời, ông Sáu chẳng những mất một người ông trọng tình nặng nghĩa yêu thương mà còn mất một người kề cận bên nhau trông coi nhà hàng, cùng bàn tính vượt khó khăn, cùng góp ý để phát triển. Giờ đây ông ít nói, ít cười. Các con lo lắng cho cha, khuyên ông nên đến ở với chúng đôi ba tuần hay vài tháng. Ông Sáu nói không giúp được gì cho ông vì các con đi làm, ông lủi thủi một mình thì lại càng buồn thêm.

Vào mùa Đông sau giỗ đầu của bà Sáu, nhà hàng không quá bận rộn, các con nhận thấy người phụ tá của cha có thể cán đáng công việc một mình, nên gợi ý ông Sáu về quê hương thăm bà con vì lần hai ông bà cùng về đã trên bảy năm rồi. Ông Sáu rơi lệ. Các con thúc giục “mấy bác, cô, cậu nhắc ba nhiều lắm”. Cuối cùng ông nghe theo.

Ông Sáu ở nhà người anh trong tuần đầu gặp gỡ bà con. Tuần thứ nhì, ông thăm bạn bè thân; tuần thứ ba lên Đà Lạt vài ngày và còn lại thì xuống Nha Trang. Tuần thứ tư, trở về thành phố ở với gia đình người em bên bà Sáu. Trong dịp gặp gỡ thân nhân, bạn bè, có một cô gái con của người bạn lân la hỏi thăm ông nhiều nhất về công ăn việc làm, đời sống ở nước ngoài mà trong lòng cô mơ ước.

Không rõ có phải do duyên phận thế nào, một năm sau ông Sáu về VN và xin cưới cô gái từng hỏi han ông thông tin làm ăn, sinh sống của Việt kiều. Năm đó cô 23, ông Sáu 54 – xem ra khá chênh lệch tuổi tác – nhưng họ tâm đầu ý hiệp, quý mến, yêu thương nhau. Đúng là tình yêu không biên giới, không giới hạn!

Cô Giang, người vợ mới cưới của ông Sáu, học hỏi mau hấp thụ, hòa nhập nếp sống dễ dàng, nhất là phụ với ông Sáu trong công việc nhà hàng thì ông Sáu yên tâm và mừng lắm. Nhà hàng có nữ quản lý duyên dáng, bặt thiệp dường như cũng cầm châm thêm được nhiều thực khách. Ông Sáu cho rằng bà Sáu hẳn đã đưa đường chỉ lối cho ông gặp và chấp thuận để ông cưới cô Giang. Hai năm sau, cặp vợ chồng so le tuổi tác sanh được một bé trai sau nhiều lần thúc giục của cô Giang – cô muốn có con với ông Sáu để sợi dây tình cảm vợ chồng càng thêm thắm thiết bởi cô rất yêu quý ông – lòng bảo lòng là ăn ở với ông trọn đời; cô biết ơn chồng qua những gì ông Sáu tận tình giúp gia đình bố mẹ cô không ngần ngại.

Khi con chung đủ lớn gửi vào lớp mẫu giáo, ông Sáu tỏ ý sang một cửa hàng và chuyển thành quán cơm bình dân để cô Giang trực tiếp làm chủ và điều hành. Ông Sáu muốn vợ trẻ có vốn riêng; còn nhà hàng nọ thì sau này trả lại cho ba con lớn vì dẫu sao cũng có nhiều công sức của mẹ chúng. Cô Giang cho rằng điều đó hợp tình hợp lý nên ủng hộ.

Vậy là vợ chồng ông Sáu bước vào lãnh vực kinh doanh lớn. Cả hai nơi đều kiếm ra tiền, cần mướn thêm người chứ chưa bao giờ ông Sáu và cô Giang thải người. Chủ nhân và người làm rất hòa hợp nhau cũng bởi người làm chân thật, người chủ tốt bụng, hiền lành.

Một thực khách, dáng người nho nhã, ở độ tuổi 22, đến ăn cơm chiều tại quán bình dân của cô Giang nhiều lần, kéo dài vài tháng. Anh ta hỏi han nhân viên chạy bàn và cho biết anh cần một công việc vì anh là sinh viên du học.

Biết rõ hoàn cảnh anh sinh viên này hiện tá túc nhà chú ruột nhưng bị thím càu nhàu, khó chịu. Ăn không đủ no, ngủ ngoài phòng khách, ôn bài, đọc sách dưới ánh đèn công viên, cha mẹ bên nhà đã vay nợ cho anh du học sau những lời hấp dẫn của người quen “qua đó nó vừa đi học, vừa đi làm, trang trải mọi thứ cần thiết, lại có dư tiền gửi về, có gì phải lo”.

Cô Giang, bấy giờ cũng gần 40, điềm đạm và chững chạc, thương cho hoàn cảnh anh sinh viên hiếu học nên cô cho một chân dọn bàn vào mỗi buổi chiều. Thanh niên này tên Dũng, người Cần Thơ cùng quê ông Sáu; tuy cả hai không biết nhau nhưng ông Sáu vẫn có chút cảm tình đặc biệt với “đồng hương”. Dũng làm việc siêng năng, vui vẻ và lễ phép với khách hàng, với nhân viên và tất nhiên với ông bà chủ. Hai tháng sau, Dũng cho biết, thím mình muốn đẩy anh ta ra khỏi nhà vì nói thêm người chật chỗ, tốn điện nước, nên kiếm chuyện liên tục khiến anh không yên tâm học hành mà thi cử gần kề. Ông Sáu động lòng thương, bàn với vợ dọn và sửa phòng kho ở nhà hàng bình dân của cô Giang thành phòng ngủ cho Dũng ở nếu Dũng sẵn sàng. Dũng vui mừng và nói để trừ bớt lương cho tiền chỗ ở. Ông Dũng gạt phăng chuyện đó, lại còn nói đã ở đấy rồi thì ăn uống luôn tại nhà hàng cho tiện, đừng nghĩ ngợi gì. Dũng tỏ ra chân thật, coi sóc kỹ lưỡng nhà hàng nên được mọi người tin cậy.

Nhờ có việc làm, nơi ăn ở, Dũng học đâu đậu đó, lên được năm cuối của Cử nhân Kinh Tế mà hầu hết môn nào cũng A hoặc A+. Anh ta ao ước học tiếp Thạc sĩ hoặc nhảy vọt lên nghiên cứu sinh cho bằng Tiến sĩ nếu được Đại học chấp thuận.

Rủi thay cho gia đình ông Sáu, một buổi tối trời mưa lâm râm, mặt đường bóng loáng, khó nhìn lằn phân ranh, đèn đường mập mờ, ông Sáu đã vượt đèn đỏ và lao xe vào gốc cây. Ông bất tỉnh, rơi vào trạng thái hôn mê trong phòng ICU của bệnh viện thành phố. Ba ngày sau ông ra khỏi “coma”, hai tuần sau ông xuất viện nhưng ông phải chịu cảnh mù lòa – nhìn chỉ thấy một màn đen trước mặt mặc dầu cơ thể gồm cả tứ chi đều ổn. Bác sĩ không biết được ông có thể phục hồi chức năng thị giác hay không?

Cô Giang bận việc quán ăn nên không túc trực bên chồng, Cô thuê được một phụ nữ khoảng 55 tuổi giúp việc nhà 10 tiếng mỗi ngày để lo cho ông Sáu. Nhưng chỉ được ba tháng thì người này xin nghỉ vì hết hạn lưu trú phải về nước ngay. Cô cố gắng tìm người khác thay mà chẳng kiếm ra ai. Bấy giờ, Dũng đề nghị để Dũng chăm sóc ông Sáu, việc tại nhà hàng thì dễ tìm người hơn. Không còn cách nào khác, cô Giang và ông Sáu chấp nhận đề nghị của Dũng.

Sau bảy tháng từ ngày gặp nạn, ông Sáu quen dần với cảnh khiếm thị, ông nói cô Giang hãy trực tiếp tập trung điều hành nhà hàng lớn (mà mấy tháng nay cô phải chạy qua chạy lại, vất vả quá), sang quán cơm bình dân, nói Dũng làm việc với phụ tá của ông vì lúc này Dũng cũng gần tốt nghiệp Cử nhân Kinh tế rồi. Ý định của ông Sáu được tiến hành mau lẹ và suôn sẻ.

Có kiến thức về kinh tế, thương mại và nhân lúc ông Sáu, cô Giang có tiền tồn đọng từ vụ sang quán cơm, Dũng nói ông Sáu cùng cô Giang nên làm hai phòng ăn hạng VIP và mướn đầu bếp nổi tiếng – đi trước một bước kẻo nhà hàng nào đó tại địa phương khai thác như vậy thì nhà hàng của ông Sáu có thể rớt khách. Kết quả nhà hàng của ông Sáu trở thành nơi tiếp khách sang trọng, văn phòng thương mại địa phương gắn huy hiệu tôn vinh. Dũng được mọi người trong gia đình ông Sáu khen ngợi, đã tin lại càng tin hơn.

Vì được cho ở chung nhà với ông Sáu, Dũng có cơ hội gần cô Giang. Cuộc trò chuyện bên ngoài chị chị, em em nhưng trong ánh mắt của Dũng dường như có một lối nhìn khác. Dũng muốn gần gũi với cô Giang hơn nữa. Chuyện đến đã đến… Dũng chọn một buổi tối, trong bữa ăn có uống rượu vang, Dũng tiếp ông Sáu hơi nhiều; cô Giang và Dũng cũng uống nhưng giới hạn. Chờ ông Sáu lên giường, Dũng bịa chuyện trong phòng trống gần đó có mùi ẩm thấp cần thu dọn. Cô Giang bước vào để coi sự thể, thì ngay lập tức, Dũng bước theo, rồi nhanh như cắt, từ sau đưa bàn tay phải bụm miệng cô, tay trái ồm choàng lấy cô ngay khoảng bồng đào. Cô Giang khựng lại, không la được mà cũng không vùng vẫy được. Cô Giang đã lịm đi trong cơn say đắm mà nhiều tháng nay cô và ông Sáu bỏ quên. Sau đó, cô Giang cảnh cáo Dũng “Không được làm hỗn, bằng không tôi tống cổ Dũng ngay”. Thế nhưng, tháng sau, Dũng lại lừa cô Giang được thêm lần nữa và lần này kéo dài thời gian trong phòng kín với nhau hơn, có âm thanh thì thào. Người ta thấy cô Giang thuê thợ đến gắn các tấm đệm ngăn tiếng động trong phòng dành cho Dũng ở. Ông Sáu nghe được tiếng búa, tiếng khoan trong nhà thì lên tiếng hỏi; cô Giang trả lời chồng là đường dẫn nước rỉ phải kêu thợ ống nước sửa chữa. Ông Sáu nói lại “Vậy à”.

Đúng thời điểm phụ nữ U40, trai tơ 30, Dũng đã đẩy được cô Giang vào trận tình. Nắm được sự khao khát của người sung sức bị lãng quên, Dũng ép cô Giang bỏ chồng để lấy hắn vì hắn muốn ở lại nước ngoài (bấy lâu nay Dũng còn hạn lưu trú là vì học 5 năm, được phép ở lại thêm 5 năm kể từ ngày tốt nghiệp). Cô Giang quyết liệt chống đối; cô chấp nhận che lấp ông Sáu chứ không thể rời bỏ ông Sáu. Dũng lên kế hoạch trong đầu óc của hắn.

Một lần, Dũng đưa cô Giang vào “mê hồn trận” và cô thật sự đã ngủ thiếp đi sau màn mây mưa thấm thiết đó. Hắn lên tiếng rù rì làm như đang nói chuyện trăng hoa với cô Giang, Dũng cố ý để tiếng vọng ra ngoài. Ông Sáu nghe được, quơ tay sang bên cạnh thì thấy giường lạnh, thiếu hơi ấm của vợ. Ông lần theo vách đi ra, nghe rõ tiếng thì thầm của “đôi gian phu dâm phụ”. Ông Sáu đau đớn trở về phòng. Ông biết từ ngày gặp tai nạn, mang tật mù lòa, ông không còn nhiều hứng thú, bỏ quên bổn phận làm chồng. Trước cô Giang còn chủ động phụ giúp ông việc này; nhưng gần đây, dù đúng lúc ông muốn thì dường như cô bị động hoặc gạt ông ra.

Ông Sáu không chịu nhục nhã vì bị cắm sừng; ông chính thức buộc cô Giang ly hôn để tự do với “thằng Dũng”. Cô nài nỉ, van xin, ông vẫn quyết rời bỏ cô vợ trẻ vì lúc này ông cũng quá 70 và chỉ yêu cầu đừng để cho các con biết. Nhà hàng cao cấp đã được chuyển nhượng cho các con trên giấy tờ hợp pháp từ lâu, ông không sợ mất; còn cái nhà ông đang ở thì bất quá phải cưa; ai giữ thằng bé còn lệ thuộc thì hưởng 60, người kia 40 và ông muốn giữ con chung để cô Giang rảnh tay có người khác. Cô Giang không cãi lại ý định của ông Sáu; nhưng xin ở lại mặc dầu giấy tờ đã ly thân. Cô Giang cấm chỉ Dũng bén mảng đến nhà ông Sáu; họ có thể gặp nhau ở nơi khác. Đồng thời, cô Giang cũng vẫn không chịu cưới Dũng. Chuyện này khiến Dũng tức giận lắm.

Sau khi hai vợ chồng ly thân, ông Sáu trong cảnh mù lòa, được hưởng chương trình hỗ trợ của chính phủ dành cho người khuyết tật. Chương trình cung cấp người đến giúp công việc nhà, làm vườn, nấu ăn, giặt giũ cho ông. Còn lại ban đêm và sáng sớm, con trai chung của ông với cô Giang giúp cha mình. Cậu bé cứ nghĩ mẹ bận ở nhà hàng nên khuya về ngủ và tờ mờ sáng đã ra khỏi nhà. Từ dạo đó, ông thường quờ quạng lần ra ngồi dưới giàn mướp đắng, đưa tay quơ qua quơ lại cố chạm cho được một trái sần sùi. Ông muốn quên đi cảnh đời tráo trở, lòng người gian xảo.

Thế rồi tai họa khác không buông tha ông Sáu lúc ông đang ngồi dưới giàn mướp đắng. “Thằng Dũng đểu” đến buộc ông phải thuyết phục cô Giang cưới hắn bằng không sẽ làm lớn chuyện khốn khổ cho ông và vợ con. Dũng càng nói, ông Sáu càng hiểu rằng vợ ông không khốn như ông nghĩ; chính thằng vô ơn, bất nghĩa này đã lợi dụng cơ hội dẫn dụ cô Giang. Đời nào ông Sáu lại nghe theo hắn. Ông Sáu quát tháo xô đuổi Dũng như xô đuổi một kẻ hèn hạ. Vậy là xô xát xảy ra. Dũng đẩy mạnh ông Sáu ngã xuống đất. Ngay lúc đó, tay ông Sáu chụp được một cái chĩa ba của người giúp làm vườn dựng bên giàn mướp đắng. Mắt không thấy đường, ông vẫn lao thẳng chĩa ba về phía trước. Dũng lúc đó vênh váo không để ý nên bị chĩa ba đâm vào ngực, máu tuôn xối xả. Sự thể xảy ra giữa một ông lòa lớn tuổi và một trai trẻ, không người thứ ba chứng kiến nên chẳng có ai gọi cấp cứu.

Ba giờ đồng hồ sau, cô Giang về, thấy cảnh tượng hãi hùng. Tất cả đã muộn. Ông Sáu nạp mình cho cảnh sát. Thi thể Dũng được xe hồng thập tự chở đi.

Cuộc điều tra sâu rộng của cảnh sát ghi nhận đầy đủ tình tiết từ lúc ban đầu vợ chồng ông Sáu tiếp nhận Dũng, đến sự việc phải chia tay vì Dũng; và lúc Dũng ép ông Sáu cùng việc cô Giang cự tuyệt khi Dũng đòi hỏi cưới hắn để hắn được ở lại.

Ông Sáu từ chối luật sư biện hộ. Lời khởi tố của công tố viên trưởng dường như chỉ trình bày sự thật để bồi thẩm đoàn và quan tòa nhận định hơn là buộc tội. Xét về một người mù và yếu đâm chĩa ba làm vườn giết một người sáng và khỏe, hơn nữa trên thân thể bị cáo có vết bầm do bị xô ngã nên bản án sát nhân dành cho ông Sáu chỉ có 5 năm tù và có thể được xét ân xá sau 3 năm 6 tháng nếu chấp hành án tù nghiêm chỉnh trong thời gian tại trung tâm cải huấn.

Một chuyện đời kết thúc, ông Giữa thở dài, lắc đầu ngưng kể. Bốn ông đầu bạc ngồi nghe và giờ cũng im bặt, chẳng ai lên tiếng bình phẩm dầu một lời an ủi ông Sáu hay chê trách cô Giang hoặc nguyền rủa “Dũng khốn”! ª

Tin cùng chuyên mục

Về Nam Úc News

Nam Úc News là tờ báo tiếng Việt hàng tuần, phục vụ cộng đồng người Việt tại Úc, đặc biệt là tại Nam Úc. Được thành lập từ năm 1995, Nam Úc News cung cấp các tin tức mới nhất về kinh tế, xã hội, đời sống, văn hóa và các sự kiện quan trọng liên quan đến cộng đồng người Việt.

Copyright @2025 NAM UC News. All Right Reserved.
Add: 185B Hanson Road, Athol Park, South Australia 5012.